Cách đây rất lâu xa, thời Đức Phật Ca Diếp (Kassapa Buddha) thị hiện giáo hóa, có một vị Tỳ kheo Ni tinh tấn tu hành, Ngài vào tận rừng sâu để thực hiện hạnh đầu đà trọn vẹn.
Một ngày, khi nghe tin Đức Phật nhập Niết Bàn, vị Tỳ kheo Ni vô cùng xúc động, Ngài ngay lập tức trở về và quyết định sẽ thực hiện một hạnh nguyện đặc biệt để bày tỏ tấm lòng của mình đối với Đức Ân Sư.
Trên đường đi, vừa khất thực, Ngài vừa hỏi xin dầu thắp đèn ở khắp nơi. Khi về đến tháp thờ, Ngài cẩn thận lau từng chân đèn sao cho sạch sẽ rồi với số dầu vừa được cúng dường, Ngài thắp sáng cả đại điện.
Màn đêm phủ xuống, ánh lửa từ hàng ngàn cây đèn bừng lên rực rỡ, đền thờ tỏa ánh sáng ấm áp mà tôn nghiêm. Trong niềm xúc động khôn cùng, vị Tỳ kheo Ni chắp tay thành kính, chầm chậm quỳ xuống trước Xá Lợi Đức Phật Ca Diếp:
– Bạch Thế Tôn, nguyện cầu Người gia hộ cho ánh sáng chánh Pháp mãi mãi trường tồn để chúng sinh được an vui nương tựa.
Suốt đêm đó, Ngài thức để trông giữ ngọn lửa …
Nhờ công đức ấy, khi mạng chung, vị Tỳ kheo Ni tái sinh lên cõi trời Đao Lợi ngập tràn ánh sáng, sống ở Thiên giới trong nhiều nghìn kiếp.
Đến thời Đức Phật Thích Ca, Ngài trở thành đệ tử xuất gia của Người, thành tựu Thiên nhãn thù thắng, chứng đạt quả vị giải thoát tột cùng. Vị Tỳ kheo Ni ấy chính là Tôn giả Xa Câu Lê (Sakula).
I. XUẤT THÂN
Tại kinh thành Xá Vệ (Savatthi), đất nước Kiều Tát La (Kosala), có một gia đình Bà la môn trưởng giả cao quý và giàu có tột bậc. Danh tiếng của họ lẫy lừng đến nỗi vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) cũng phải nể trọng. Vị trưởng giả có một ái nữ hiền hậu tên là Xa Câu Lê.
Tiểu thư Xa Câu Lê có đôi mắt đẹp vô cùng. Ánh mắt sáng, trong ngần, rất mực dịu dàng. Qua ánh mắt mỗi khi Ngài nhìn một ai đó, người ta thấy được cả sự chân thành, sâu sắc của một nội tâm phong phú và đầy lòng trắc ẩn.
Tiểu thư có phước báu lạ kỳ là không bao giờ phải ở trong bóng tối. Nhiều lần người thị nữ để ý thấy, mỗi khi Ngài đặt chân đến một nơi nào đó vào lúc trời đã muộn, thì dù hoang vắng xa xăm cách mấy, cũng có người phát tâm mang đến đuốc đèn để thắp sáng.
II. ÁNH SÁNG CHÁNH PHÁP
Một ngày, kinh thành Xá Vệ bỗng nhiên tưng bừng như mở hội. Dân chúng từ khắp nơi đổ về, nô nức tới dự buổi lễ khánh thành tinh xá Kỳ Viên (Jetavana). Nằm ngay cạnh trục đường chính phía ngoại thành, đây là ngôi đại tự kỳ vĩ, mang tầm vóc bậc nhất thời bấy giờ. Người ta kể rằng trưởng giả Cấp Cô Độc (Anathapindika) sẵn sàng dùng hàng triệu miếng vàng lát đầy mặt đất để mua lại khu vườn từ Thái tử Kỳ Đà (Jeta), xây dựng tinh xá cúng dường lên Đấng Giác Ngộ đến từ vương quốc Sakya. Dù vậy, đây mới là dịp đầu tiên dân chúng Xá Vệ có cơ hội được chiêm ngưỡng dung nghi của Người.
Thời khắc thiêng liêng đã đến, Đức Thế Tôn cùng Tăng đoàn bước tới uy nghiêm chói lọi như vầng mặt trời. Trong đám đông đang quỳ dọc hai bên lối đi, Ngài Xa Câu Lê cũng xúc động đảnh lễ năm vóc sát đất.
Sau đó, Đức Thế Tôn tuyên Pháp. Lời Pháp vang lên trầm hùng. Trên thế gian có bốn nơi đáng để cư trú, đó là: nơi có tình yêu thương, nơi có chánh Pháp được tuyên giảng, nơi có bậc Thánh cùng sinh sống và cuối cùng là Niết Bàn tịch lặng. Niết Bàn là nơi hạnh phúc tối thượng, vượt thoát khỏi mọi khổ đau sinh tử. Chỉ những bậc xuất gia, chứng đạt trí tuệ thù thắng mới có thể đạt đến Niết Bàn.
Ngài Xa Câu Lê suy ngẫm lại cuộc đời thấy thấm thía vô cùng. Từ nhỏ đến giờ, Ngài được bảo bọc trong nhung lụa phú quý, thoáng qua tưởng là may mắn ven toàn nhưng chẳng phải như vậy. Đó chỉ là vẻ hào nhoáng bề ngoài, còn chung quanh Ngài vẫn hiển hiện bao nỗi đau khổ của mọi người. Sự mưu toan, ích kỷ, tranh giành quyền thế, phân biệt thứ lớp sang hèn, những nỗi lo âu vất vả của những người gia nhân phụ việc…
Ngài Xa Câu Lê phát khởi tín tâm sâu sắc, thấy rõ rằng chỉ có trong thiện Pháp của Đức Thế Tôn mới có được hạnh phúc chân thật. Từ đó, Ngài trở thành một tín nữ thuần thành, thường hay tới tinh xá để cúng dường và học hỏi đạo lý từ chư vị Tăng Ni.
III. XUẤT GIA
Trong một lần ghé thăm tinh xá Kỳ Viên, Ngài Xa Câu Lê được nghe một vị A La Hán thuyết Pháp. Bài Pháp đã làm bừng lên thiện căn từ lâu được nuôi dưỡng trong lòng vị tín nữ.
Trai qua nhiều năm tháng, Ngài cảm thấy cuộc sống thế tục đầy rẫy những đắm tham, uế nhiễm. Sự luyến ái mà chúng sinh bám chấp vào hóa ra chỉ là một vũng bùn lầy nhơ nhớp. Mọi thứ đều chóng qua, vô thường, giả tạm. Ai cũng một đời mỏi mệt tranh giành rồi cuối cùng cũng không thoát khỏi bệnh tật, già nua, cái chết. Ngài hiểu rằng, chỉ có đời sống xuất gia mới đạt được phạm hạnh và đưa đến niềm an lạc bất tử.
Trong lòng thôi thúc khôn nguôi, Ngài Xa Câu Lê giã từ thân quyến, từ bỏ mọi tài sản và danh tiếng bấy lâu để xuất gia trong giáo Pháp. Được sự cho phép của Thế Tôn, vào một buổi chiều êm đềm, Ngài phủi đi mái tóc dài, khoác lên mình tấm y nâu khất sĩ. Từ đây, Ngài chính thức trở thành một vị Tỳ kheo Ni trong giáo đoàn của Đức Phật.
IV. THIÊN NHÃN ĐỆ NHẤT
Sau khi xuất gia, Tôn giả Xa Câu Lê được những bậc Trưởng lão chỉ dạy về thiền định và các oai nghi tế hạnh của một Tỳ kheo. Ngài tu hành tinh tấn và rất nghiêm mật.
Không bao lâu sau, vào một đêm cô tịch, Tôn giả an trú dần vào trong các tầng thiền định. Đến nửa đêm, trí tuệ bừng tỏ phá tan màn vô minh, Ngài chứng đắc Thánh quả A La Hán, viên mãn giải thoát giác ngộ.
Do nhân duyên nhiều đời, Thiên nhãn của Ngài đạt được năng lực thù thắng, chiếu rọi cùng khắp đến vô lượng vô biên thế giới.
Giây phút đó, Ngài hướng tâm về khoảng không gian vô tận trên bầu trời. Trong tức khắc hiện ra vô số những tinh vân, thiên hà, hàng tỷ tỷ ngôi sao sáng lấp lánh… cả vũ trụ như nằm trọn trong một tia nhìn sâu thẳm. Ngài thấy nơi đâu cũng có sự hiện diện của chúng sinh. Từ các hành tinh xa xôi, biển cả bao la, đồi núi điệp trùng đến những sa mạc hoang vu nắng cháy… Đến cả một giọt nước li ti cũng chứa đựng cả thế giới của ngàn vạn sinh vật nhỏ bé. Sự sống vô cùng đa dạng, phong phú, ngập tràn trong pháp giới. Thế nhưng, nỗi khổ đau cũng tràn ngập bủa vây lấy cuộc đời chúng sinh.
Ngài hướng về sự lưu chuyển của chúng sinh trong luân hồi sinh tử. Từ các tầng trời, cõi quỷ thần, cõi người đến súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, tất cả đều theo nghiệp duyên thiện ác mà chiêu cảm. Ai biết tu hành, làm việc thiện thì được quả báo lành, sinh về nơi hạnh phúc an vui. Ai làm ác thì phải chịu khổ đau, thậm chí phải đọa đày trong địa ngục chịu sự tra tấn khủng khiếp để đền tội. Luật Nhân quả quyết định tất cả, công bằng tuyệt đối, không chừa một ai.
Bằng Thiên nhãn siêu tuyệt, Tôn giả nhìn sâu trong tâm của chúng sinh, thấy được tới những nhân quả vi tế sâu xa. Cùng một hành động nhưng chỉ sai khác nhau trong đường tơ kẽ tóc, một ý niệm thầm kín cũng dẫn đến những quả báo cách nhau một trời một vực. Có người bố thí, cúng dường nhưng khởi tâm tiếc rẻ nên được quả báo giàu sang nhưng đời sống cực kì hà tiện, kham khổ. Có kẻ làm điều thiện nhưng không xuất phát từ đạo đức, nên khi phước báo thành tựu thì bản ngã cũng lớn theo, đầy mưu toan ích kỷ rồi phải chịu đau khổ ở kiếp sống sau. Cũng có người làm việc tốt nhưng không kiên trì, trong một lúc nóng nảy rũ bỏ tất cả thì đời sau đang thành công bỗng chốc bị đổ vỡ… Mọi cảnh đời sai biệt đều do các nhân đã gieo mà thành.
Thế nhưng, dù chúng sinh có được hưởng phước báu nơi cõi trời vinh quang tột bậc rồi cũng chỉ là vô thường, mong manh, tạm bợ. Cuối cùng, vẫn lại là khổ đau. Vô lượng kiếp, hết kiếp này đến kiếp khác, chúng sinh đã chết đi rồi lại tái sinh không biết bao nhiêu lần, cứ thế lẩn quẩn trong các cõi. Chúng sinh trôi lăn trong sinh tử, ngụp lặn giữa dòng nghiệp quả mà không biết lối ra. Chỉ những ai may mắn được chỉ dạy và tu hành theo chánh Pháp của Đức Phật mới có con đường cao thượng để hướng về và cuối cùng sẽ đến được bến bờ hạnh phúc.
Thiên nhãn của Ngài là cực kỳ vi diệu, không thể nghĩ bàn. Với lòng từ bi bao la của một vị A La Hán, Ngài đã dùng Thiên nhãn ấy để phổ độ vô số chúng sinh trong khắp pháp giới. Vì vậy một lần, giữa hội chúng rất đông các vị Tỳ kheo, Đức Thế Tôn đã tán thán:
“Trong các đệ tử Ni của Như Lai, thành tựu Thiên nhãn đệ nhất, nhìn khắp không trở ngại, chính là Tỳ kheo Ni Xa Câu Lê”.
Cách đây hơn một trăm nghìn đại kiếp, thời Đức Phật Thắng Liên Hoa (Padumuttara) thị hiện giáo hóa, Ngài đã phát lên lời nguyện chí thành để thành tựu Thiên nhãn tối thắng và được Đức Phật thọ ký. Từ đó, trong các kiếp tái sinh, lúc nào Ngài cũng làm vô số công đức lành cúng dường và hỗ trợ Tam Bảo. Ngài tu hành, giữ giới hạnh thanh tịnh, cúng dường đèn nến thắp sáng tháp thờ Đức Phật, không quản ngại vất vả mang ánh sáng đến cho mọi người, luôn quan sát tinh tế trong từng điều nhỏ nhặt và luôn giúp đỡ, không bỏ bất kỳ một nỗi khổ nào của chúng sinh một khi đã trông thấy qua
Nhờ công đức ấy, nhiều đời nhiều kiếp Ngài lúc nào cũng được sống trong cảnh hạnh phúc. Nếu tái sinh trong cõi trời thì đạt được Thiên nhãn thù thắng, nếu sinh vào cõi người thì có đôi mắt rất đẹp và phước báu luôn có được ánh sáng đầy đủ, không bao giờ phải chịu cảnh tối tăm.
V. KẾT LUẬN
Tôn giả Xa Câu Lê là bậc Thánh Ni vĩ đại trong hàng đệ tử của Đức Phật. Ngài đã từ bỏ cuộc sống phù hoa thế tục để xuất gia, sống một đời phạm hạnh tu hành theo chánh Pháp. Từ công đức đã gây tạo nhiều đời nhiều kiếp, Ngài thành tựu năng lực Thiên nhãn tối thắng, thấu suốt cả pháp giới.
Nương theo công hạnh của Ngài, chúng con nguyện sẽ luôn thấy rõ sự vô thường, khổ đau của thế gian để quyết tâm tinh tấn tu hành theo chánh Pháp, dành trọn cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp hoằng hóa, mang tin vui đạo lý đến cho tất cả chúng sinh.
Xin Tôn giả gia hộ cho chúng con luôn có lòng tôn kính chư Phật tuyệt đối, trí tuệ tin hiểu nhân quả sâu sắc để chúng con có thể vững vàng bước đi trên con đường giải thoát giác ngộ bao la.
VI. Ý NGHĨA ĐỘ MỆNH
Tôn giả Xa Câu Lê (Sakula) là vị A La Hán Ni có công hạnh Thiên Nhãn Đệ Nhất trong hàng đệ tử Đức Phật. Thiên nhãn của Ngài cực kỳ vi diệu. Ngài có thể nhìn sâu trong tâm, dù đó là một ý nghĩ vi tế sâu xa nhất, của mỗi chúng sinh trong bất kỳ cõi giới nào. Ngài thấu rõ đường đi của nhân quả nghiệp báo. Từ đó, Ngài có thể hóa độ cho vô lượng chúng sinh trong khắp pháp giới. Đê thành tựu được công hạnh này, Ngài đã trải qua vô số kiếp tu hành, giữ gìn giới hạnh thanh tịnh và làm vô số công đức. Ngài đã từng cúng dường đèn nến thắp sắng tháp thờ Xá Lợi Đức Phật, không quản ngại vất vả mang ánh sáng đến cho mọi người, có sự quan tâm tinh tế trong từng điều nhỏ nhặt để giúp đỡ bất kỳ chúng sinh nào.
Khi thờ kính Ngài quý Phật tử sẽ:
– Gieo nhân lành có đôi mắt sáng đẹp. Cuộc sống sung túc, an vui. Dần thành tựu được tính cẩn thận, tỉ mỉ nên thường được mọi người tin tưởng giao cho các việc quan trọng.
– Tinh tế nhìn nhận mọi vấn đề, dần hiểu sâu và đúng về luật Nhân quả nên trong từng hành động, lời nói và việc làm đều có sự suy xét kỹ lưỡng về tội phước.
Được chư Thiên gia hộ nên sớm nhận ra lỗi sai để tiến tu. Thuận duyên trên con đường hoằng hóa Phật Pháp, gây tạo được nhiều công đức cho sự tu tập thiền định.
VII. THƠ TỤNG
Con xin quỳ xuống vạn lần
Đảnh lễ bậc Thánh xuất trần siêu phương
Vũ trụ cùng tận vô biên
Chỉ một ánh mắt thoáng nhìn hiện ra
Tinh cầu kỳ diệu bao la
Chúng sinh phước nghiệp sâu xa khôn cùng
Quy luật Nhân quả bao trùm
Chi phối tất cả tận cùng càn khôn
Chúng sinh mang nặng công ơn
Được Ngài phổ độ làm con Phật Đà
Thiên Nhãn Đệ Nhất Ni Đoàn
Xa Câu Lê bậc Thánh Ni thuở nào
Ơn Ngài biển rộng trời cao
Chúng con ghi khắc cùng nhau nguyện thề
Nghìn đời chỉ một lối về
Quy y Tam Bảo chùa là quê hương
Cúi đầu lạy Phật mười phương
Xin Ngài chứng giám lòng con chân thành
Trước Ngài sám hối tội tình
Từ đây xin nguyện giữ mình khiêm nhu
Nụ cười ánh mắt hiền từ
Thương yêu tất cả cho dù lạ xa
Đường đời còn lắm phong ba
Gắng công tu tập thoát ra khổ sầu
Giúp người nhân quả tin sâu
Vô thường chẳng đợi ai đâu bao giờ
Việc tu đừng đợi đừng chờ
Từng ngày tinh tấn để mà vượt lên
Lòng tôn kính Phật phước nền
Đường tu đúng hướng muôn nghìn kiếp sau
Từ bi khiêm hạ khắc sâu
Từng ngày sửa lỗi mới mau trưởng thành
Nguyện cầu khắp cả chúng sinh
Bừng lên lý tưởng tu hành vị tha
Có gì đáng quý hơn là
Con đường chánh Pháp nở hoa đẹp ngời.
Nam Mô Xa Câu Lê Tôn Giả (3 lần)