Tôn Giả Ba Đề Thích Vương – Đệ Nhất Trong Các Tỳ Kheo Thuộc Dòng Dõi Hoàng Tộc

Ai dứt trừ phiền não
Chánh niệm, tuệ quán tu
Vượt qua được ngã chấp
Mọi kiết sử đoạn trừ
An lạc không sầu muộn
Đạt chánh định nhất như…

Tôn Giả Ba Đề Thích Vương - Đệ Nhất Trong Các Tỳ Kheo Thuộc Dòng Dõi Hoàng Tộc -

Tôn Giả Ba Đề Thích Vương – Đệ Nhất Trong Các Tỳ Kheo Thuộc Dòng Dõi Hoàng Tộc

I. XUẤT THÂN

Tôn giả Ba Đề Thích Vương (Bhaddiya Kaligodhaputta) là một Hoàng tử thuộc dòng dõi Thích Ca (Sakya) trong thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu). Ngài là con trai của Hoàng vương Dhotodana và Công chúa Kaligodha. Cha Ngài là hoàng đệ của Đức vua Tịnh Phạn (Suddhodana), mẹ Ngài là công chúa lớn tuổi nhất trong dòng tộc Godha, một nhánh thuộc dòng họ Thích Ca. Từ nhỏ, Ngài rất thân thiết với các vị Vương tử khác trong hoàng tộc. Đó là Hoàng tử A Nậu Lâu Đà (Anuruddha), Hoàng tử A Nan (Ananda), Hoàng tử Nan Đề (Nandiya), Hoàng tử Kim Tỳ La (Kimbila)

Các vị cùng học tập, đọc sách, luyện tập võ nghệ, luận bàn việc nước và chia sẻ với nhau mọi chuyện. Đặc biệt, các vị Hoàng tử đều thích được tới cung điện của Thái Tử Tất Đạt Đa (Siddhartha). Thái Tử tuy bận rộn nhưng mỗi khi các Hoàng đệ ghé thăm, Người đều dành thời gian thăm hỏi ân cần từng vị. Người hỏi han về việc học hành và tập luyện. Người kể cho các Hoàng tử nghe về cuộc sống của người dân cả nước, về những kiến thức mới lạ, những câu chuyện sâu sắc đầy lòng nhân ái. Người còn dạy các Hoàng đệ về cách thiền định. Đối với các vị, Thái Tử là cả một bầu trời trí tuệ bao la ngập tràn ánh sáng.
Ngày Thái Tử đi xuất gia, hoàng cung chìm trong thương nhớ. Hoàng tử Ba Đề cũng rất nhớ Thái Tử. Nhưng Ngài luôn tin rằng, mọi quyết định của Thái Tử đều có mục đích vô cùng cao cả, và chắc chắn Thái Tử sẽ thành tựu được chí nguyện của Người.

Sau này càng trưởng thành, Hoàng tử Ba Đề càng trầm tĩnh. Những quyết định đưa ra chuẩn mực và chính xác. Ngài được Đức vua Tịnh Phạn tin tưởng giao phó nhiệm vụ trấn thủ các tỉnh miền Bắc vương quốc Thích Ca (Sakya). Đây là khu vực có tuyến giao thương quan trọng, cũng là khu vực dân cư còn nhiều vấn đề phức tạp cần xử lý và thay đổi. Tiếp nhận nhiệm vụ được một thời gian ngắn, Ngài đã nhận được sự mến mộ của người dân trong vùng. Ngài nhân hậu, đầy trách nhiệm và chẳng quản ngại bất kỳ nhiệm vụ khó khăn nguy hiểm nào.

Dù sống trong phú quý, vinh quang, trong niềm yêu mến của tất cả mọi người, nhưng Ngài không cảm nhận được sự an lạc. Mỗi buổi chiều tà, Ngài một mình đứng trên mỏm núi, ngắm hoàng hôn phủ bóng xuống Ca Tỳ La Vệ, trong lòng Ngài thường có niềm trăn trở khôn nguôi.

II. XUẤT GIA

Bóng tối bao trùm. Trên con đường quanh co mờ bụi, Ngài Ba Đề trở về dinh thự tổng trấn. Cuộc tranh chấp giữa hai ngôi làng có nhiều chi tiết phức tạp cần Ngài đến tận nơi giải quyết. Mấy ngày rồi Ngài đã không được chợp mắt. Vừa bước vào thư phòng, một cận vệ hồ hởi chạy vào báo tin.
– Thưa Tổng trấn, Thái Tử Tất Đạt Đa giờ đã trở thành một Bậc Đạo Sư. Người đang dẫn đầu năm trăm vị Sa môn sắp về đến kinh thành Ca Tỳ La Vệ.
Ngài Ba Đề vui mừng khôn tả. Không đắn đo nhiều, Ngài lập tức lên ngựa, cùng các cận vệ phi như bay về kinh thành để kịp trời sáng. Trong tâm Ngài chỉ có hình ảnh của Thái Tử. Người đã trở về. Vị Hoàng Huynh yêu kính của Ngài đã trở về…

Ngài về tới kinh thành khi trời vừa tỏ rạng. Chưa bao giờ Ngài thấy một Ca Tỳ La Vệ tràn ngập hân hoan như thế. Dọc hai bên đường, những dải cờ hoa đủ màu sắc giăng trên các mái hiên còn rực rỡ hơn cả lễ hội lớn nhất trong năm. Mùi bánh nướng, mùi ngũ cốc từ các căn bếp tỏa ra thơm nức. Cả dãy phố râm ran tiếng nói cười. Mọi người gặp gỡ và chúc tụng nhau. Kinh thành Ca Tỳ La Vệ khoác lên mình một diện mạo tươi mới để đón mừng Đức Thế Tôn trở về.
Từ xa tiến vào, Tăng đoàn bước đi tựa như dòng Anoma hiền hòa. Đức Thế Tôn dẫn đầu chư Tăng. Hoàng cung như bừng sáng lên bởi dung nghi rạng ngời của Người. Vô cùng giản dị, Người khoác trên mình tấm y đơn sơ, đặt từng bước chân trần trên tấm thảm dẫn vào cung điện. Từng ánh nhìn, từng cử chỉ của Người tràn đầy niềm an lạc và thanh tịnh. Thế Tôn trầm hùng ngự trên pháp tòa. Người cất lời, từng lời Pháp âm trầm ấm:

– Thưa Phụ vương, Như Lai đã xuất gia và tìm được Đạo quả giác ngộ, đã hoàn toàn giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
– Thưa Phụ vương, thế gian là vô thường tạm bợ. Vì vô minh mà chúng sinh cứ mãi trôi lăn trong luận hồi khổ đau. Chỉ những người biết tu tập theo Bát Chánh Đạo mới có thể vượt thoát khỏi trầm luân sinh tử ấy. Lành thay cho những ai biết nghe chánh Pháp…
Khi ấy, Hoàng tử Ba Đề chăm chú lắng nghe. Trong lòng Ngài nhen lên niềm hạnh phúc khôn tả. Ngài nhìn xung quanh, gương mặt của tất cả mọi người dường như cũng đang ngời sáng.
Sau hôm ấy, Hoàng tử Ba Đề quyết định lưu lại kinh thành một vài ngày. Một buổi tối, khi Ngài đang ngồi trong thư phòng thì Hoàng tử A Nậu Lâu Đà tìm đến. Hoàng tử A Nậu Lâu Đà bộc bạch:
Thưa huynh, từ khi Đức Thế Tôn trở về, đệ thấy vô cùng vui mừng và hạnh phúc. Đệ ao ước được xuất gia trong Tăng đoàn của Người. Đệ không còn thiết tha với cuộc sống thế tục nữa.
– Này A Nậu Lâu Đà, huynh rất mừng khi nghe đệ nói như vậy – Ngài Ba Đề nhìn vị Hoàng đệ với ánh mắt tin tưởng.
– Nhưng thân mẫu ra điều kiện là đệ phải thuyết phục được huynh đi xuất gia cùng thì mới cho phép. Đệ biết huynh cũng có ước nguyện này. Đệ cũng cảm nhận được từ huynh Kim Tỳ La, huynh Ma Nam Câu Lợi (Mahanama), huynh Nan Đề, và cả đệ A Nan cũng đều mong muốn được xuất gia …
Hoàng tử Ba Đề nhìn đôi mắt sáng ngời của Hoàng đệ, Ngài mỉm cười nói:
– Thật tốt quá, A Nậu Lâu Đà. Huynh chính là cũng đang có ý này. Bảy ngày nữa chúng ta sẽ đi xuất gia. Huynh sẽ sắp xếp mọi việc rồi chúng ta sẽ cùng nhau đến gặp Thế Tôn.

Hoàng tử A Nậu Lâu Đà nhìn hoàng tử Ba Đề trong niềm vui mừng khôn xiết.
Đúng hẹn, bảy ngày sau đó, tại tinh xá Ni Câu Đà (Nigrodha) phía sau hoàng cung, Hoàng tử Ba Đề, Hoàng tử A Nậu Lâu Đà, Hoàng tử Kim Tỳ La, Hoàng tử A Nan, Hoàng tử Di Hê (Meghiya), Hoàng tử Đề Bà Đạt Đa (Devadatta)… cùng rất nhiều vị Hoàng tử khác đến xin Thế Tôn cho xuất gia. Đức vua Tịnh Phạn cùng mọi người trong hoàng tộc cũng đến chứng kiến. Khung cảnh thật trang nghiêm và ngập tràn niềm phấn khởi. Bên hồ, những đóa sen đã nở rộ, hương thơm quyện vào trong gió tỏa ngát không trung…

III. CHỨNG ĐẠO

Sau lễ xuất gia, Tăng đoàn trở về Trúc Lâm (Veluvana) tinh xá. Dòng sông Anoma nhẹ trôi trong cơn gió chiều đầu hạ. Mùa an cư đã tới. Từng đợt mưa nhẹ phấp phới trên những ngọn tre. Mỗi buổi chiều trong tiết trời quang đãng, các vị Tỳ kheo mới xuất gia ngồi trang nghiêm nghe các vị giáo thọ sư thuyết giáo và hướng dẫn thiền định. Sau khi đã thành thạo những giáo lý được học, Ngài Ba Đề nhận một đề mục thiền quán từ Đức Thế Tôn. Sau đó, Ngài xin phép Tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputta) đến một khu rừng sâu thanh vắng để ẩn cư và ngày ngày tinh chuyên thiền định.
Một đêm khi cơn mưa rào xối xả vừa dứt, Ngài Ba Đề đang tĩnh tọa dưới cội Tala tán xòe rộng thì bỗng hoát nhiên bừng ngộ. Ngay khoảnh khắc đó, Ngài chứng đắc Thánh quả A La Hán tột cùng cao thượng, vượt thoát khỏi trầm luân sinh tử.
Không khí buổi đêm hôm ấy thật trong mát. Trên bầu trời, những vì sao đã hiện ra lấp lánh.

IV. NIỀM HẠNH PHÚC CHÂN THẬT

Sau khi chứng đạo, Tôn giả Ba Đề thường an trú trong thiền định. Mỗi lúc đó, cảm nhận niềm an lạc từ nơi đạo quả, Ngài thường nói lên rằng:
– Ôi! Thật là an lạc! Thật là an lạc!
Một lần, có vài vị Tỳ kheo nghe thấy những lời ấy liền nghi ngại. Các vị nghĩ rằng vì Ngài mới gia nhập Tăng chúng nên còn lưu luyến về cuộc sống phú quý, sang giàu trước kia. Sáng hôm sau, những vị Tỳ kheo ấy đến bạch Phật để Đấng Bổn Sư có những lời sách tấn.
Đức Thế Tôn nhẹ nhàng đề nghị:

– Này thầy Ba Đề, có vị Tỳ kheo nói Thầy đêm qua vì nhớ nghĩ đến cuộc sống vương giả trước kia mà đã thốt lên lời cảm thán. Thầy hãy trình bày trước hội chúng điều này cho sáng tỏ.
Khi ấy, Tôn giả Ba Đề cung kính chắp tay thưa:

– Kinh bạch Đức Thế Tôn, đúng là đêm qua con có nhớ nghĩ về cuộc sống vương giả trước kia, nhưng không phải để lưu luyến nó mà để đoạn tuyệt với nó. Con đã hạnh phúc biết bao khi được sống trong chánh Pháp của Thế Tôn. Con xin phép được trình bày những suy nghĩ ấy.

– Kinh bạch Đức Thế Tôn, ngày trước sống trong phú quý giàu sang, được cung phụng mọi thứ mỹ vị thơm ngon trong bát vàng đĩa ngọc, được khoác lên người khăn nhung áo gấm thiết kế cầu kỳ, nhưng lúc nào con cũng thấy nặng nề và bỏ buộc. Giờ đây được theo chân chư Tăng, ngày ngày ôm bình bát đi khất thực, ăn những phẩm vật được cúng dường trong bát, mặc tấm y thô chắp vá đơn sơ, nhưng từng ngày trôi qua con đều cảm nhận được niềm thảnh thơi, an lạc. Con nâng niu và trân trọng từng ơn nghĩa trong đời.

– Kinh bạch Đức Thế Tôn, trước đây con sống trong dinh thự có lớp lớp tường thành kiên cố bao quanh, binh lính với gươm đao canh phòng cẩn mật, mỗi khi di chuyển có cận vệ hộ tống không rời. Vậy mà con luôn cảm thấy lo lắng, bất an. Những phiền não luôn chập chờn mỗi đêm trong giấc ngủ. Giờ đây khi được về nương dưới bóng Người, dù sống một mình trong rừng sâu thăm thẳm hay trong nghĩa địa hoang vu, từng phút từng giây với con đều là an yên, tịnh lạc.

– Kính bạch Đức Thế Tôn, trước đây con cưỡi voi đi khắp xứ sở trong sự tung hô và tán thán. Nhưng thẳm sâu trong cõi lòng con lại trĩu nặng ưu phiền. Giờ đây, con bước đi trên đôi chân trần trong Tăng chúng của Thế Tôn, Người dẫn đầu, tỏa hào quang ngời rạng, chư Tăng bước theo sau, khiêm nhu và thanh tịnh. Thế gian này thật sự không còn điều gì hạnh phúc hơn, vinh quang hơn.

Kinh bạch Đức Thế Tôn, trước đây chưa bao giờ con được sống, được cảm nhận niềm an lạc, hạnh phúc như vậy. Đêm hôm đó vì quán niệm thấy điều này mà con chợt thốt lên lời cảm thán thật không phải thời, làm bận lòng huynh đệ. Con xin được chân thành sám hối.
Đức Thế Tôn mỉm cười:

– Lành thay. Này thầy Ba Đề, niềm an lạc của Thầy cả chư thiên và loài người cùng ước ao. Không phải chỉ đời này mà trong các đời trước, Thầy cũng đã từng có những niềm an lạc như vậy.

Sau khi nghe Thế Tôn tán thán như vậy, các vị Tỳ kheo đều hoan hỷ và thêm lòng kính trọng với Tôn giả Ba Đề. Bởi các vị biết rằng, Ngài đã là một bậc Thánh cao quý, vượt thoát khỏi mọi điều tầm thường của thế tục.

V. CÔNG HẠNH ĐỆ NHẤT

Một lần trước rất đông các vị Tỳ kheo, Đức Thế Tôn xác chứng rằng: “Trong các Tỳ kheo thuộc dòng dõi hoàng tộc, Tỳ kheo Ba Đề là đệ nhất”.

Nhân duyên ấy bắt nguồn từ thời Đức Phật Thắng Liên Hoa (Padumuttara) cách thời Đức Phật Thích Ca một trăm ngàn đại kiếp. Khi ấy Tôn giả Ba Đề là con trai của một gia đình trưởng giả giàu có, kính tin Tam Bảo. Trong một buổi thuyết Pháp, Đức Phật Thắng Liên Hoa đã tán thán một vị Tỳ kheo với danh hiệu Đệ Nhất Trong Các Tỳ Kheo Thuộc Dòng Dõi Hoàng Tộc. Ngài Ba Đề khi đó đã thành tâm cúng dường Phật và khởi lên ước nguyện sẽ đạt được danh hiệu ấy trong tương lai. Phước duyên đầy đủ, Đức Phật thọ ký cho Ngài sẽ thành tựu ước nguyện vào thời của Đức Phật Thích Ca sau này.

Nhờ nhân lành đã gieo, kể từ đó Ngài chỉ tái sinh lên cõi trời hoặc trở lại cõi người trong dòng dõi cao quý. Năm trăm kiếp liên tục, Ngài đều là một vị vua đầy uy quyền và phước lực. Mỗi kiếp ấy Ngài đều làm nhiều điều thiện lành, chăm lo chu đáo cho nhân dân, đặc biệt là luôn hết lòng hộ trì Tam Bảo.

Vì vậy, trong lần trở lại cuối cùng này, Ngài được sinh ra là một hoàng tử trong vương tộc cao quý của đất nước Thích Ca. Thân mẫu Ngài là trưởng công chúa của cả hoàng tộc. Sau này, Thân mẫu Ngài cũng chứng Thánh quả sau khi được Thế Tôn hóa độ. Khi lớn lên, Ngài dẫn đầu những vị vương tử trong hoàng tộc đến xin Thế Tôn cho xuất gia, sẵn sàng từ bỏ vương quyền để sống đời Sa môn thanh tịnh, giải thoát.

Với phước lực sung mãn đã tích lũy nhiều đời, ngay trong mùa an cư kiết hạ đầu tiên, Ngài đã chứng đắc Thánh quả A La Hán, vượt thoát khỏi trầm luân sinh tử, hoàn thành chí nguyện kiếp xưa.

VI. KẾT LUẬN

Tôn giả Ba Đề là vị đệ tử ưu tú của Đức Phật. Ngài xuất thân từ dòng dõi cao quý nhưng đã khước từ tất cả để sống một đời Sa môn giải thoát, thanh cao. Cuộc đời Ngài đã để lại cho hậu thế vô số bài học đáng quý.
Trong cuộc sống, chúng sinh luôn khát khao đi tìm hạnh phúc. Thế nhưng, vì chưa có chánh Pháp dẫn đường mà đôi khi chúng sinh đắm chìm trong danh vọng, ái dục, tài sản… rồi gây tạo biết bao nhiêu lầm lỗi. Ban đầu tưởng chừng như hạnh phúc nhưng kết thúc vẫn lại là khổ đau. Chỉ những ai biết quỳ dưới bóng từ bi, biết dâng lên Đức Phật với trọn tấm lòng tôn kính thiết tha, người đó mới đang bước đi trên con đường tìm về với cội nguồn hạnh phúc chân thật.
Nguyện cầu cho tất cả chúng sinh đều được trở về nương tựa dưới Đấng Từ Bi và tinh tấn tu hành giải thoát giác ngộ.

VII. Ý NGHĨA ĐỘ MỆNH

Tôn giả Ba Đề Thích Vương (Bhaddiya Kaligodhaputta) là vị A La Hán có danh hiệu Đệ Nhất Trong Các Tỳ Kheo Thuộc Dòng Dõi Hoàng Tộc. Ngài đã gieo trồng công đức sâu dày và luôn tin kính Tam Bảo, nên trong nhiều kiếp Ngài được sinh ra trong dòng dõi cao quý. Tuy vậy, Ngài đã khước từ tất cả khi biết tới giáo Pháp nhiệm màu của Đức Thế Tôn. Từ đó, Ngài sống một đời sống tu hành thanh cao, luôn tinh tấn và giữ gin giới hạnh. Cuộc đời Ngài đã để lại cho hậu thế vô số bài học cao quý.
Khi thờ kính Ngài quý Phật tử sẽ:
– Vững bước trên con đường tu tập tâm linh.
– Gieo nhân lành trở thành người cao quý, họ hàng thân quyến cũng thường là những người có quyền uy và phước đức lớn, được nhiều người kính nể.
– Dần thành tựu được những phẩm chất của một người lãnh đạo, giải quyết vấn đề khéo léo, dễ có những quyết định chuẩn xác, từ đó giúp công ty, tổ chức, đất nước phát triển hưng thịnh.
Có được những niềm tin đúng đắn, gặp được con đường chân chính và được gần Thầy lành bạn tốt trên con đường tu tập.

VII. THƠ TỤNG

Thành tâm đảnh lễ mười phương
Quay về nương tựa con đường Đạo thiêng
Phật từ trí tuệ uy nghiêm
Pháp lành soi sáng mọi miền thế gian
Cúi xin đảnh lễ Thánh Tăng
Quyết lòng theo Phật chẳng màng quyền uy
Làm vua khắp chốn trị vì
Suốt năm trăm kiếp sinh về hoàng cung
Bậc hiền cao quý khôn cùng
Phước lành uy đức phủ trùm muôn nơi
“Dòng dõi quý tộc” bao đời
Đệ Nhất Tăng chúng như lời Phật tuyên
Ngày đêm tinh tấn hành thiền
Tán cây che chở, sao nghiêng bên trời
Lòng từ trải đến muôn nơi
Nguồn tâm thanh tịnh không lời thênh thang
Mát lành như suối chảy tràn
Vững vàng bất động như ngàn núi cao
Bậc A La Hán bước vào
Niết Bàn tịch tĩnh bao la nhiệm màu
Nguyện xin cùng bước theo nhau
Gieo vào muôn lối biết bao duyên lành
Con đường vượt thoát tử sanh
Đưa nhau qua những gập ghềnh khổ đau
Giữ gìn Phật Pháp nghìn sau
Thắp lên ngọn lửa trao nhau Đạo lành
Nhiệt tâm, dũng mãnh, tinh cần
Dựng xây chánh Pháp vạn lần hưng long
Như lúa thơm giữa cánh đồng
Đất lành cày xới vun trồng cây xanh
Hạt mầm nhỏ bé ươm thành
Bao nhiêu hoa trái lá cành xinh tươi
Nhân Quả quy luật muôn đời
Niềm tin chân lý sáng ngời trong tâm
Kiên trì nhẫn nại âm thầm
Làm từng việc phước, nghiệp dần nhẹ vơi
Hiểu thân cát bụi mà thôi
Đã qua bao kiếp luân hồi trôi lăn
Thành tâm sám hối ăn năn
Từ nay xin nguyện siêng năng tu hành
Lễ Phật nền tảng phước lành
Biết bao công hạnh đạt thành mai sau
Ngồi thiền khuya sớm đêm thâu
Hạnh phúc rộng mở, Đạo màu lan xa…

Nam Mô Ba Đề Thích Vương Tôn Giả (3 lần)

Trích ( Thánh Độ Mệnh “TÔN GIẢ BA ĐỀ THÍCH VƯƠNG (BHADDIYA KALIGODHAPUTTA) ” )

0 0 votes
Article Rating
Subscribe
Notify of
guest

0 Comments
Oldest
Newest Most Voted
Inline Feedbacks
View all comments
0
Would love your thoughts, please comment.x
()
x